Giáo sư Nguyễn Văn Huyên là "tư lệnh" ngành giáo dục từ 1946 đến 1975, và được xem là "kiến trúc sư trưởng của lâu đài giáo dục nước nhà".
Sau Cách mạng tháng Tám, từ công cuộc xóa nạn mù chữ đến hai lần cải cách giáo dục (năm 1950 và 1956) và xây dựng nền giáo dục trong hai cuộc kháng chiến đều in đậm dấu ấn của ông.

Giáo sư Huyên (thứ hai từ trái sang) tham gia phái đoàn Chính phủ Việt Nam dự đàm phán tại Fontainebleau, Pháp, tháng 6/1946
Ông Huyên sinh năm 1905, người Lai Xá, Hoài Đức. Ông từng du học Pháp, đỗ cử nhân Văn chương và cử nhân Luật. Ông sau đó là sinh viên Việt Nam đầu tiên của Đại học Sorbonne, một trong những trường danh tiếng nhất Pháp, bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ Văn chương ở tuổi 29.
Về nước năm 1935, giáo sư Huyên khước từ làm quan để theo nghề dạy học, rồi chuyên tâm nghiên cứu khoa học tại Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được bổ nhiệm là Tổng Giám đốc Đại học Vụ kiêm Giám đốc Đông Phương Bác cổ học viện.
Tháng 11/1946, sau chuyến sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau đàm phán hòa bình, giáo sư Nguyễn Văn Huyên được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) vì hiểu biết rộng và học vấn cao nhất trong chính phủ lúc bấy giờ.
Ban đầu, ông không dám nhận vì không có kinh nghiệm. Sau khi được Bác động viên: "Chú phải chia chữ cho nhân dân", ông mới nhận lời.
Tâm huyết dành cho sự nghiệp giáo dục của ông thể hiện rõ trong bài diễn văn nổi tiếng, tại lễ khai giảng năm học đầu tiên của Đại học Quốc gia Việt Nam, ngày 15/11/1946. Vị giám đốc tuyên bố về sứ mệnh của nền đại học: "... dân tộc Việt Nam, ngoài công cuộc đấu tranh bằng xương máu trên chiến địa, còn nỗ lực tham gia vào công cuộc tiến triển văn hóa nhân loại. Chúng tôi muốn rằng nền đại học mới này là một lực lượng mạnh trong những lực lượng chiến đấu của dân tộc Việt Nam".
Lúc ông nhậm chức bộ trưởng, 95% người dân Việt Nam không biết chữ, huyện lớn mới có trường tiểu học, vài tỉnh mới có một trường trung học cơ sở và cả nước có 5 năm trường trung học phổ thông toàn cấp.
Ông Phạm Trọng Đang, thư ký đầu tiên của bộ trưởng, cho hay ngay những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ông Huyên đã đề ra các kế hoạch kịp thời, từ củng cố tổ chức, di chuyển cơ quan Bộ để tránh sự tấn công của địch, thành lập khu giáo dục dựa theo các khu kháng chiến... Ông cũng chỉ đạo dùng tiếng Việt, thay vì tiếng Pháp trong các trường phổ thông, đại học.
Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Bộ Giáo dục chuyển lên chiến khu Việt Bắc. Nhiệm vụ hàng đầu của ngành lúc này là xóa nạn mù chữ và bổ túc văn hóa cho nhân dân, cán bộ. Thiếu thầy, trò, trường lớp, sách giáo khoa, giấy mực... nhưng các ngành bình dân học vụ, giáo dục phổ thông ở vùng tự do được giữ vững và phát triển.
Không chỉ xóa mù chữ, ngành giáo dục còn mở thêm các lớp bổ túc văn hóa để nâng cao trình độ của cán bộ và nhân dân lao động. Năm 1946, Nha Bình dân học vụ đã thành lập được gần 75.000 lớp học, phát triển khoảng 96.000 giáo viên và xóa mù cho hơn 2,5 triệu người.
Để có sách, tài liệu giảng dạy, Bộ trưởng Huyên động viên anh em cốt cán nghiên cứu chương trình sách giáo khoa nước bạn. Trại Tu thư được thành lập để biên soạn chương trình và sách giáo khoa mới. Giáo sư Huyên trực tiếp chỉ đạo các môn khoa học xã hội, viết sách giáo khoa sử, địa lý trung học chuyên khoa. Nhờ đó, chương trình học của các cấp dần được biên soạn và hoàn chỉnh.
Dưới thời Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, nền giáo dục thích ứng chủ động với cuộc sống của 30 năm chiến tranh. Hai cuộc cải cách giáo dục quan trọng vào năm 1950 và 1956 đã thể hiện tính linh hoạt, thức thời trong lãnh đạo của ông.
Trong điều kiện kháng chiến, chương trình phổ thông được tinh giản từ 12 năm xuống 9 năm song vẫn chú trọng đảm bảo chất lượng. Những lứa học sinh sau này trở thành các nhà khoa học đầu ngành như Nguyễn Đình Tứ, Nguyễn Văn Hiệu, Nguyễn Lân Dũng...
Muốn "chia được chữ cho nhân dân", ngành giáo dục cần có đủ giáo viên và giáo viên giỏi. Vì thế, các lớp thuộc hệ sư phạm cấp tốc 7+2, 10+3... lần lượt ra đời. Đại học cũng linh hoạt phù hợp nhu cầu, đào tạo từ 2 năm, lên 3 năm rồi 4 năm.

Bộ trưởng Huyên phát biểu tại Hội nghị mừng báo Người giáo viên Nhân dân
Năm 1954, miền Bắc giải phóng, Bộ Giáo dục trở về Hà Nội, tiếp quản các cơ sở giáo dục, với nhiệm vụ mới đào tạo thế hệ trẻ tài năng, những cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề cho đất nước. Hàng loạt trường sư phạm từ sơ cấp, trung cấp đến đại học được thành lập, mở đầu công cuộc kiến thiết nền giáo dục đại học của quốc gia. Đến năm 1965, cả miền Bắc có 17 trường đại học, hơn 2.700 cán bộ giảng dạy và gần 30.000 sinh viên với tổng số 97 ngành học.
Khi Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại, ông thường đến những vùng xa xôi, hẻo lánh để dự giờ, động viên thầy trò phải học dưới hầm tránh máy bay. Ông còn tổ chức cho học sinh, sinh viên, cán bộ đi học nước ngoài để xây dựng đội ngũ trẻ cho khoa học, giáo dục và các ngành; khảo sát kinh nghiệm của các nước Liên Xô, Đức.
Nhờ sự quyết liệt và sâu sát của Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, năm 1974, Việt Nam có đoàn học sinh đầu tiên dự thi Olympic Toán quốc tế ở Đức và giành 4 huy chương (1 vàng, 1 bạc, 2 đồng).
Theo ông Nguyễn Sĩ Tỳ, nguyên Bí thư Đảng ủy Bộ Giáo dục, Đảng và Nhà nước nhiều lần đánh giá cao những thành tựu nền giáo dục mà bộ trưởng cùng đồng nghiệp đã dày công xây dựng trong hơn 29 năm, gọi đó là "một trong những bông hoa đẹp nhất của chế độ mới".
Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1999 đã viết: "Hoàn thành các công việc này trong những hoàn cảnh khó khăn lạ lùng của các cuộc kháng chiến chứng tỏ ông là người có một ý thức trách nhiệm, lương tâm nhà nghề cực kỳ đẹp đẽ".
Vị bộ trưởng đạp xe khắp các tỉnh thăm trường học
Trong ký ức của các đồng nghiệp ngày ấy, nhắc tới giáo sư Huyên, họ nhớ đến hình ảnh vị bộ trưởng đạp xe từ chiến khu về thăm các trường ở Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Ninh, vào tận Liên khu 4.
Ông Lê Văn Giạng, nguyên thứ trưởng, cho biết những năm kháng chiến chống Pháp, việc đi lại khó khăn, nguy hiểm, nhưng ông Huyên vẫn thường xuyên đến những nơi có trường, lớp...
Ông không bao giờ báo trước với địa phương mà đến thẳng trường rồi dành trọn một ngày để nghe báo cáo và thảo luận chứ không thăm hỏi qua loa. Bộ trưởng Huyên quan tâm đến đời sống nhân viên và hay dành tiền phụ cấp đại biểu quốc hội, nhuận bút để mua quà thăm người ốm, giúp đỡ cấp dưới...

Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên thăm Trường Đại học Sư phạm Vinh, Nghệ An, năm 1959
Ông Huyên còn được yêu quý bởi sự giản dị và hòa đồng. Đến trường nào, ông cũng hỏi thăm sức khỏe, tình hình học tập, ăn ở của thầy và trò. Thầy cô giáo cùng học sinh quấn quýt xung quanh, chuyện trò thân thiết.
Ông Đang nhớ những ngày tháng ở núi rừng Việt Bắc, bộ trưởng sống như anh chị em cán bộ, nhân viên, cũng quần nâu, dép cao su; ăn uống đạm bạc. Trong những đi công tác, ông mang theo ngô luộc hoặc gạo, muối, mỡ, nước mắm cho vào lọ penicilin để tự lo bữa cơm.
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên trong ký ức người thân
Ngôi nhà của PGS.TS. Nguyễn Văn Huy trên phố Trần Hưng Đạo, Hà Nội, những ngày này tiếp đón nhiều người bạn, phóng viên đến tìm hiểu tư liệu về cha ông, cố giáo sư Nguyễn Văn Huyên.
Ông Huy và gia đình ba người chị gái sống quây quần trong khu đất chung của gia đình nên hễ có khách đến hỏi về cha, họ lại sang chuyện trò. Các ông, bà đều là PGS, nhà khoa học về hưu, nay đã trên 80 tuổi nhưng mỗi lần lần giở ký ức, các chị em vẫn xúc động, nhớ tường tận từng kỷ niệm.
Mang ra những cuốn hồi ký dày cộp, ông Huy chỉ vào bức ảnh đen trắng chụp ông được mẹ bế và các chị trước ngày cha đi dự Hội nghị Fontainebleau, Pháp, tháng 6/1946. Đôi mắt ông nheo lại, ngón tay lướt chậm rãi trên những dòng chữ rồi đọc to lá thư cha gửi cho mẹ, bà Vi Kim Ngọc, và các con.

Bà Ngọc và các con trước ngày ông Huyên đi Hội nghị Fontainebleau, Pháp, tháng 6/1946
Ông Huyên khi ấy là thành viên của phái đoàn Việt Nam cùng Bác Hồ đến Pháp để đàm phán về tương lai của đất nước. Lá thư ông gửi về sau hơn 40 ngày xa gia đình, chứa chan tình cảm của người chồng, người cha và nỗi lòng một trí thức yêu nước trước vận mệnh dân tộc.
Trong thư, ông động viên vợ: "...Ngọc ạ, lúc này mà chúng ta không tự hy sinh một chút lợi riêng thì còn lúc nào nữa nhỉ? Ngọc hiểu biết lắm nên Huyên mới nhảy vào vòng mà gỡ mối tơ vương.... Hai mươi năm lăn lộn sách đèn, một chục năm phiêu lưu chân giời góc bể mới có dịp giơ thẳng cánh tay. Chúng ta dắt tay nhau mà cố lên vậy".
Ông Huy ngày đó mới một tuổi, chưa đọc được nhưng sau này mới hiểu bức thư như một tuyên ngôn, lẽ sống của cha.
Trong mắt bốn người con, giáo sư Huyên là người cha mẫu mực, dù bận rộn vẫn luôn quan tâm đến việc học hành của con cái. Ông Huy nhớ cha tặng một phong bì đầy cát ở kim tự tháp và sa mạc Sahara sau chuyến công tác tại châu Phi hay lần khác là một quả trứng đà điểu. Tất cả đều trở thành những học liệu quý giá với chị em ông.
Còn với bà Hà, con gái thứ hai, những lá thư của cha là sợi dây kết nối tình cảm gia đình, giúp bà vơi nỗi nhớ nhà trong những ngày tháng du học ở Liên Xô. Bà luôn đọc kỹ thư của cha, nhớ từng lời dặn dò "... cố gắng học, sửa những cái bỡ ngỡ năm ngoái mà tiến... Con cố gắng cho thật xứng đáng".
Năm 2014, đại gia đình ông Huy thành lập Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên, với khoảng 400 hiện vật. Theo gia đình, cuộc đời cùng với những tư liệu và ký ức về một con người, một gia đình góp phần tăng hiểu biết của công chúng về lịch sử, xã hội và văn hóa của một thời kỳ, một đất nước.
"Cha là tấm gương sáng để chúng tôi soi vào. Chúng tôi luôn nhắc nhở nhau làm bất cứ điều gì cũng không để ảnh hưởng tới thanh danh của cha mẹ", ông Huy nói.
Bình Minh